Một ngân hàng nhỏ hoàn toàn có thể cạnh tranh sòng phẳng, thậm chí bỏ xa những thành viên quy mô triệu tỷ đồng trong phát triển ngân hàng số.
Phát triển ngân hàng số tại Việt Nam đang cho thấy một thực tiễn công bằng: vị thế và hiệu quả phụ thuộc vào tầm nhìn, chiến lược, nỗ lực đầu tư và cách làm, chứ không hẳn dựa vào những lợi thế đặc thù hay quy mô tầm cỡ.
Lịch sử để lại cho đến nay, tại Việt Nam, khối ngân hàng thương mại nhà nước có lợi thế riêng trong huy động và cho vay, một quá trình lâu dài gắn với những khách hàng lớn. Nhưng với ngân hàng số, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân đã và đang tự tạo những lợi thế riêng để vượt lên.
Bất ngờ từ những điểm xuất phát thấp
Năm 2013, Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí (PVFC) hợp nhất với Ngân hàng Phương Tây (Western Bank). Một trong những khó khăn lớn nhất khi đó là ráp nối hệ thống công nghệ giữa hai bên.
Khi ráp nối mang tính tổng thể, chi phí đầu tư đòi hỏi lớn. Ngân hàng khi hợp nhất còn khó khăn về nguồn lực, thêm đặc thù PVFC có quy mô lớn trong mô hình một công ty tài chính. Nhưng, công nghệ là đề án đầu tiên phải làm, để nhanh chóng vận hành một ngân hàng thương mại mới sau hợp nhất - PVcomBank.
Và khá bất ngờ, vài năm sau, chính PVcomBank là một trong số ít ngân hàng thương mại Việt Nam có app dịch vụ mobile banking tương đối hoàn thiện và có nhiều tiện ích nổi bật trên thị trường. Đây là đầu mối đã sớm có tiết kiệm trực tuyến, tiết kiệm gửi góp trên app này, trong khi một số ngân hàng lớn với thâm niên cả nửa thế kỷ vẫn loay hoay chưa thể triển khai.
Cũng có điểm xuất phát thấp so với nhiều thành viên khác, TPBank hơn bốn năm trước vẫn là ngân hàng nhỏ. Tại đây cũng có đặc điểm từng rất khó khăn, phải tự tái cơ cấu. TPBank cũng trẻ, mới thành lập từ 2008.
Nhưng nay, sau khi tái cơ cấu thành công, TPBank đang tạo hiện tượng về tăng trưởng lợi nhuận, liên tiếp ở nhóm đầu hệ thống về tăng trưởng những năm gần đây. Và một trong những động lực thúc đẩy chính là ngân hàng số.
Lãnh đạo TPBank từng giải thích rằng, ngay từ đầu chiến lược ngân hàng số đã được lựa chọn để tạo hướng đi riêng. Được lựa chọn vì nó gắn với thế mạnh đặc thù của ngân hàng, Hội đồng Quản trị xác định tầm nhìn và xem đây là giải pháp rút ngắn khoảng cách một cách nhanh hơn so với các thành viên khác, cũng như có cơ hội tạo vị thế mới, canh tranh tốt hơn với đặc điểm công bằng của ngân hàng số.
Theo đó, thay vì tập trung mở rộng mạng lưới như mô hình ngân hàng truyền thống mà đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, nhân sự và chi phí vận hành tăng cao, trong khi độ trễ cho sinh lời kéo dài, thì TPBank đẩy mũi nhọn ngân hàng số với chi phí so sánh thấp hơn nhưng hiệu quả cao hơn, đặc biệt là trong nắm bắt xu hướng các nhu cầu trên thị trường.
Dĩ nhiên còn tùy thuộc vào cách làm, nhưng đến nay ngân hàng này đã thành công trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược đó.
Lan tỏa các giá trị
Như trên, đầu tư cho công nghệ để phát triển ngân hàng số đòi hỏi nguồn lực lớn. Đòi hỏi này một phần lý giải cho những bước đi còn khá chậm tại những thành viên có quy mô tổng tài sản cỡ triệu tỷ đồng những năm qua.
Để “lột xác” công nghệ một hệ thống lớn còn cần thời gian. Thực tế như tại Ngân hàng Công thương (VietinBank), phải đến cuối năm ngoái mới xong đề án CoreBanking và được gọi là “công cuộc chuyển đổi”. Trong khi đó, qua thông tin kiểm toán trước đây cho thấy, Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) vẫn phải nâng cấp công nghệ có tuổi đời từ nhiều năm trước, và dự kiến đến cuối năm nay mới thực sự đổi mới xong…
Trong khi đó, ở khối ngân hàng tư nhân, dù sớm chủ động về công nghệ, nhưng từ 2017 Techcombank đã xác định tiếp tục dành ngân sách 200 triệu USD để tiếp tục đầu tư cho công nghệ, đảm bảo không bị lỗi thời trong ít nhất 10 năm tới.
Hay khi nhiều ngân hàng thương mại bắt đầu nhập cuộc mạnh về tín dụng tiêu dùng, phân khúc này có dấu hiệu bắt đầu “bão hòa”, thì từ hơn ba năm trước VPBank đã chuẩn bị và lần lượt đưa ra thị trường loạt sản phẩm mới trong chiến lược phát triển ngân hàng số. Khi đó, Tổng giám đốc VPBank Nguyễn Đức Vinh từng nói rằng, tương lai gần lợi nhuận từ ngân hàng số sẽ là cấu phần quan trọng để cân đối với tín dụng tiêu dùng.
Lợi nhuận từ ngân hàng số cũng thể hiện dần tại những điển hình trên, như TPBank, Techcombank và VPBank, với tỷ trọng thu dịch vụ liên tục gia tăng những năm gần đây.
Và gián tiếp, chiến lược trên đã và đang giúp các ngân hàng thương mại nâng cao nền tảng khách hàng, thiết lập những hệ sinh thái của mình để gia tăng những lợi ích khác, đặc biệt về cải thiện và nâng cao lượng tiền gửi không kỳ hạn (CASA) để gián tiếp tăng giá trị thu tín dụng, thúc đẩy bán chéo các sản phẩm dịch vụ khác như bảo hiểm…
Quan trọng hơn, giá trị từ ngân hàng số không chỉ hướng nội.
Theo lãnh đạo HDBank, ngân hàng số bên cạnh giá trị trong quản trị và vận hành của mỗi ngân hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ, còn tạo giá trị lan tỏa bằng những giải pháp cho khách hàng.
Như tại HDBank, chỉ riêng hệ sinh thái với Vietjet và HD SAISON, việc thiết kế những sản phẩm đặc thù, những giải pháp chuyên biệt, trên nền tảng số hóa để quản lý, tích hợp vận hành chuỗi đại lý, từ thanh toán, quản lý dòng tiền đến cả tín dụng, cũng đã kích thích thêm lợi ích và giá trị cho cả hệ sinh thái.
Hay nhận diện nhu cầu để chủ động tạo hệ sinh thái riêng bằng những giải pháp mới, VPBank đã xây dựng dịch vụ BIZPAY, một sản phẩm được xác định là trọng tâm chiến lược hiện nay, tập trung vào phân khúc doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tuy nhiên, mũi nhọn ngân hàng số hiện nay không hẳn đều dễ khoan thủng những rào cản trên thực tế để gia tăng giá trị hơn nữa. Đó có thể là hành lang pháp lý còn chờ hoàn thiện ở một số khía cạnh, thói quen và sự e dè nhất định còn có ở khách hàng, nhất là trong yêu cầu đổi mới công nghệ gắn với chi phí và gia tăng minh bạch…
Trong khi đó, ở một hướng khác, sự tham gia và phát triển của các công ty Fintech, những bước tiến của những mô hình như MoMo, Grab…, hay tới đây cả mô hình MobileMoney cũng đang và sẽ thiết lập những hệ sinh thái riêng, mà ở những vùng giao thoa có cạnh tranh với hoạt động các ngân hàng thương mại. Và đây đang là xu hướng mới.
Minh Đức
Theo Bizlive
Vietnam Report
Bình Luận (0)