Với 86,35% đại biểu có mặt tán thành, những nút thắt về xử lý nợ xấu, đặc biệt là tài sản đảm bảo chính thức được tháo gỡ.
Sáng nay 21/6, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã chính thức thông qua Nghị quyết về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, 86,35% số đại biểu có mặt tán thành. Tỷ lệ không tán thành nghị quyết này cũng khá cao, tới hơn 6% tương đương với 31 đại biểu. Có 12 đại biểu không biểu quyết.
Nghị quyết này được thực hiện trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày 15/8/2017.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết xử lý nợ xấu của TCTD.
Theo báo cáo giải trình và tiếp thu ý kiến của đại biểu do Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày trước Quốc hội, Về nguyên tắc xử lý nợ xấu (Điều 3), một số ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể trong Nghị quyết này không miễn trừ trách nhiệm đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra nợ xấu hoặc vi phạm trong quá trình xử lý nợ xấu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu tại khoản 4 Điều 3 của dự thảo Nghị quyết: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.”
Một số ý kiến đề nghị không chỉ quy định bảo vệ quyền lợi người gửi tiền mà cần bổ sung nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đi vay, người có liên quan; cân nhắc dùng từ “chủ nợ” trong dự thảo Nghị quyết. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu chỉnh lý, không quy định khái niệm “chủ nợ”, bổ sung làm rõ việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên bao gồm TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tại khoản 1 Điều 3 của dự thảo Nghị quyết. Như vậy, quy định đã bao quát các chủ thể liên quan, trong đó có TCTD, người đi vay...
Một số ý kiến đề nghị thể hiện rõ nguyên tắc “không sử dụng ngân sách nhà nước”. Có ý kiến đề nghị vẫn xem xét sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu trong trường hợp nợ xấu phát sinh do nguyên nhân khách quan. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, sửa đổi quy định “Không sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước cho xử lý nợ xấu” thành “Không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu” tại khoản 3 Điều 3 của dự thảo Nghị quyết để phản ánh đúng nội dung Nghị quyết và phù hợp với Nghị quyết của Quốc hội số 25/2016/QH14 về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020.
Về việc xử lý nợ xấu, có 2 phương án quy định phạm vi nợ xấu cần xử lý theo Nghị quyết xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, kết quả lấy phiếu của hai phương án không có sự chênh lệch lớn (phương án 1: 203 phiếu/phương án 2: 193 phiếu), không quá bán so với số đại biểu.
Sau khi cân nhắc, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy để bảo đảm thực hiện mục tiêu xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng như đã đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, phấn đấu đến năm 2020 nợ xấu của các tổ chức tín dụng xuống dưới 3%. Mặt khác, đây là Nghị quyết thí điểm mang tính đặc thù giải quyết khoản nợ xấu phát sinh bất thường trong thời gian vừa qua, cho nên cần có chính sách phù hợp để xử lý nợ xấu phát sinh do nghiệp vụ tín dụng thực hiện trước thời điểm Nghị quyết có hiệu lực được xác định là ngày 15/8/2017.
Còn sau thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống các TCTD, ban hành và áp dụng các chuẩn mực quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro cao hơn, hợp lý theo thông lệ quốc tế để giảm thiểu phát sinh nợ xấu mới. Sau quá trình thực hiện Nghị quyết, Chính phủ tiến hành tổng kết, đánh giá và đề xuất sửa đổi hệ thống pháp luật có liên quan để xử lý các khoản nợ xấu phát sinh mang tính thường xuyên, thuộc rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc quy định phạm vi nợ xấu cần xử lý theo phương án nêu trên sẽ bảo đảm nguồn lực để tập trung xử lý các khoản tín dụng xấu đang gây cản trở hoạt động của hệ thống ngân hàng, tránh việc các TCTD có thể lạm dụng các quy định của Nghị quyết để xử lý nợ xấu của các khoản nợ phát sinh sau ngày 15/8/2017. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội chấp thuận cho phương án này.
Về việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án, có ý kiến cho rằng quy định ba điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như dự thảo Nghị quyết là thiếu, đề nghị bổ sung thêm 2 điều kiện đã quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 317 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, qua tổng kết, đánh giá, Chính phủ thấy rằng các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 317 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không phù hợp với tính chất của giao dịch bảo đảm, TCTD khó áp dụng được các điều kiện này để áp dụng trình tự thủ tục rút gọn tại Tòa án. Việc không được áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm của TCTD, do đó, căn cứ quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Nghị quyết đã bổ sung cho phép áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm và quyền xử lý tài sản bảo đảm trên cơ sở giao dịch bảo đảm này đã được đăng ký theo quy định của pháp luật (phát sinh hiệu lực đối kháng với bên thứ ba). Đồng thời, để bảo đảm tính khả thi, Nghị quyết này đã giao Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn chi tiết về áp dụng thủ tục rút gọn.
Về xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản (Điều 10), có ý kiến đề nghị quy định rõ về điều kiện "Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” tại khoản 1 Điều 10. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo quy định của Điều 148 Luật Nhà ở năm 2015 thì dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai được thế chấp chỉ cần có Giấy chứng nhận hoặc quyết định giao đất, cho thuê đất, mà không yêu cầu có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để phù hợp với Luật Nhà ở, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin chỉnh sửa lại thành hai điều kiện như sau: “Dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định pháp luật” tại điểm a khoản 1 Điều 10 và "Có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” tại điểm b khoản 1 Điều 10 dự thảo Nghị quyết.
Về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án (Điều 11), có ý kiến đề nghị quy định lại Điều 11 theo hướng tài sản đảm bảo khoản nợ xấu tại ngân hàng không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật thi hành án dân sự, trừ trường hợp giá trị tài sản đảm bảo lớn hơn khoản vay tại TCTD, hoặc trường hợp kê biên để thực hiện bản án quyết định của tòa án về bồi thường thiệt hại sức khỏe, tính mạng, danh dự, tiền nuôi con, tiền công, tiền trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm xã hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và thể hiện lại Điều này như sau: “Các tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên phải thi hành án đang bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều 90 của Luật Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu”.
Theo Trí thức trẻ
Vietnam Report
Bình Luận (0)